SOEC tiếp ông Kazuyuki Sato (Trưởng khoa tuyển sinh của Trường Nhật ngữ MCA).

Vừa qua, ông Kazuyuki Sato (Trưởng khoa tuyển sinh) cũng đoàn cán bộ Trường Nhật ngữ MCA đã có chuyến thăm và làm việc với SOEC tại TP. Hồ Chí Minh và văn phòng SOEC tại Hà Nội.

SOEC tiếp bà Miyake Hiroshi - Hiệu trưởng Trường nhật ngữ Kobe

Vừa qua, bà Miyake Hiroshi (Hiệu trưởng) cùng đoàn cán bộ Trường nhật ngữ Kobe đã có chuyến thăm và làm việc với SOEC tại TP. Hồ Chí Minh và văn phòng SOEC tại Hà Nội.

SOEC tiếp ông Kazuyuki Sato (Trưởng khoa tuyển sinh của Trường Nhật ngữ MCA).

Vừa qua, ông Kazuyuki Sato (Trưởng khoa tuyển sinh) cũng đoàn cán bộ Trường Nhật ngữ MCA đã có chuyến thăm và làm việc với SOEC tại TP. Hồ Chí Minh và văn phòng SOEC tại Hà Nội.

SOEC.EDU.VN LÀ WEBSITE CÓ NỘI DUNG PHONG PHÚ NHẤT VỀ DU HỌC NHẬT BẢN TẠI VIỆT NAM
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cuộc sống tại Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Cuộc sống tại Nhật Bản. Hiển thị tất cả bài đăng

10 điều thú vị trong văn hóa Nhật Bản

Nước Nhật luôn khiến du khách sững sờ và thích thú với nhiều nét văn hóa độc đáo.
1. Món Kit Kat
Những thanh sô-cô-la Kit Kat đặc biệt được người dân Nhật Bản yêu thích, không phải vì hương vị thơm ngon hay bao bì đẹp mà hoàn toàn do cái tên của nó. 
Từ “Kit Kat” khá giống về âm điệu với câu chúc may mắn: “Kitto katsu” (Bạn chắc chắn sẽ thành công). Để đáp ứng nhu cầu cực lớn của người Nhật, hãng sô-cô-la này đã liên tục cho ra đời các hương vị hợp với họ như sô-cô-la vị đậu đỏ, vị trà xanh và wasabi.

2. Nhà hàng robot
Được mở tại Tokyo, nhà hàng này là một trong những trải nghiệm thú vị của người Nhật. Những người phục vụ bàn sẽ chơi trống và bass trong khi các robot sẽ biểu diễn diễu hành và đánh nhau với khủng long để giải trí cho thực khách. 

3. Bồn cầu công nghệ cao
Washlet hay bồn cầu công nghệ cao cũng là một đồ dùng thường thấy trong ngôi nhà Nhật. Mặc dù khá hiện đại với hệ thống làm ấm và khử mùi tự động, chiếc bồn cầu này vẫn gây khó khăn cho khá nhiều du khách đến Nhật vì không hiểu cơ chế hoạt động.

4. Dây rốn trẻ em
Theo truyền thống, các bà mẹ Nhật Bản thường giữ lại dây rốn của trẻ sơ sinh. Họ sẽ gói nó trong một bộ quần áo búp bê và cất trong một chiếc hộp được chạm trổ rất đẹp gọi là Kotobuki Bako. 

5. Ăn cá độc
Bất chấp nhiều vụ ngộ độc diễn ra khắp nơi, cá nóc vẫn rất phổ biến trong bữa ăn người Nhật. Những đầu bếp đại tài của đất nước này phải học tập nhiều năm để loại bỏ phần nọc độc trong cá và bộ môn này cũng được coi là một nghệ thuật. 

6. Pachinko
Pachinko là một dạng máy trò chơi, trong đó người chơi phải cố gắng đẩy quả bóng qua các mê cung và đến đúng vị trí được yêu cầu. Từ những năm 30 của thế kỷ trước, chiếc máy này đã được người Nhật yêu thích và tới nay vẫn tràn ngập trên các đường phố Nhật. 

7. Kaba Kick
Cũng là một trò chơi được trẻ em Nhật ưa thích, Kaba Kick là một chiếc súng nhựa với cách chơi khá kỳ quặc: người chơi phải kê súng sát đầu và kéo cò. Nếu khẩu súng phát thành tiếng kêu là bạn đã thua còn nếu nó không kêu, người chơi sẽ dành điểm.

8. Hikimayu
Hikimayu là một trong những truyền thống của phụ nữ Nhật từ thế kỷ thứ 8. Họ thường cạo sạch lớp lông mày tự nhiên đi và vẽ đường lông mày cực ngắn, nhỏ ở trên trán. 

9. Những khách sạn độc đáo 
Khách sạn mô phỏng viên thuốc, khách sạn cho phép khách tới ngủ, khách sạn bằng băng… khá phổ biển ở Nhật, thể hiện sự sáng tạo vô biên của người làm dịch vụ tại đây. 

10. Rượu Sake
Rượu sake được nấu từ gạo lên men, bột gạo koji và nước là đồ uống phổ biến ở Nhật, đi kèm với khá nhiều quy tắc. Các loại rượu khác nhau được uống vào những thời điểm khác nhau. Người trẻ phải rót rượu cho người già nhất trước. Khi có người rót sake cho bạn, phải giữ cốc rượu bằng 1 tay và tay kia kê phía dưới cốc để thể hiện phép lịch sự. 


Bí quyết sống ở Nhật Bản

Để hòa nhập với môi trường sống cũng như con người ở Nhật Bản, ngoài ngôn ngữ ra, bạn cũng cần phải nắm bắt được văn hóa của con người nơi đây.
1. Rất hân hạnh được làm quen
Nếu đã từng có dịp gặp gỡ hoặc làm việc với người Nhật, bạn sẽ thấy họ thường cúi mình và nói YOROSHIKU ONEGAI SHIMASU. Câu này không chỉ dùng khi tự giới thiệu bản thân, mà dùng cả khi nhờ ai đó giúp đỡ. Đôi khi cũng thấy YOROSHIKU ONEGAI SHIMASU xuất hiện ở cuối thư. Có thể bạn băn khoăn không hiểu người viết thư muốn nhờ mình điều gì. Thật ra, câu này không nói tới việc gì cụ thể, mà có ý nói đến tổng thể nội dung truyền đạt trong thư. Đây có lẽ là một trong những cách diễn đạt điển hình của Nhật Bản. Và nếu ai đó nói với bạn YOROSHIKU ONEGAI SHIMASU, thì bạn có biết mình nên đáp lại thế nào không? Bạn chỉ cần nhắc lại câu đó: YOROSHIKU ONEGAI SHIMASU.
2. Một cách từ chối
Người Nhật rất coi trọng chữ “Hòa” trong các mối quan hệ. Họ không muốn các mối quan hệ bị rạn nứt do từ chối thẳng quá.
Ví dụ, khi được mời một món ăn không thích lắm, trước hết nên nói ARIGATO GOZAIMASU, có nghĩa là “Xin cảm ơn” để cảm ơn người mời. Khi muốn từ chối lời mời hay gợi ý nào đó, có thể nói CHOTTO… với hàm ý từ chối. CHOTTO là một từ rất hữu ích, có thể dùng cả khi bạn muốn gọi ai, hay khi muốn từ chối một điều gì đó.
Trong công việc, người Nhật cũng dùng nhiều cách nói vòng, nói tránh. Có một câu điển hình mà người Nhật thường dùng khi muốn từ chối một giao dịch với khách hàng, đó là câu KENTO SHITEMIMASU. Tuy KENTO SHITEMIMASU có nghĩa là “Sẽ cân nhắc, sẽ xem xét”, nhưng đừng mừng vội, vì thực ra, câu này hàm ý là “Xin đừng kỳ vọng sẽ có câu trả lời tốt đẹp.”

3.Ý thức của người Nhật về thời gian
Nhiều người nước ngoài tới thăm Nhật Bản thường ngạc nhiên khi thấy tàu điện chạy rất đúng giờ. Đa số người Nhật rất thích làm việc đúng giờ giấc. Theo kết quả khảo sát ý kiến của một hãng sản xuất đồng hồ tầm cỡ, trả lời câu hỏi: “Khi đi làm bằng tàu điện, tàu đến chậm mấy phút thì anh/chị thấy sốt ruột?”, cứ 2 người thì có 1 người cho biết: “Trong vòng 5 phút mà tàu không đến là thấy sốt ruột rồi.”
Người Nhật rất quý trọng thời gian.
Người Nhật coi việc đến trước giờ hẹn 5 phút là một quy tắc trong giao tiếp. Bạn sẽ thường xuyên thấy người khác nói rằng, họ có mặt ở địa điểm đúng giờ, nhưng hóa ra lại là người đến sau cùng. Đặc biệt, khi hẹn làm việc, đến muộn rất dễ bị mất lòng tin nên khi thấy có thể bị muộn giờ thì nên gọi điện thông báo, vì chỉ muộn 5 phút là rất nhiều người Nhật đã sốt ruột rồi.
4. Giờ làm việc ở công ty
Giờ làm việc của nhiều công ty Nhật Bản bắt đầu từ 9 giờ sáng, kết thúc lúc 5 giờ chiều, nhưng gần đây, ngày càng có nhiều nơi áp dụng chế độ giờ làm việc linh hoạt, cho phép nhân viên ở mức độ nào đó có thể tự điều chỉnh giờ làm việc của mình. Mọi người rất thích chế độ giờ làm việc như thế, vì họ có thể tránh được giờ cao điểm và có thể làm việc phù hợp với nhịp sinh hoạt hàng ngày.
Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều người dù đã xong phần việc của mình vẫn ngại không muốn về vì thấy đồng nghiệp và cấp trên đang làm việc ngoài giờ. Chính lúc này, người Nhật rất hay dùng một câu để biểu lộ sự quan tâm đến đồng nghiệp, đó là OSAKI NI SHITSUREI SHIMASU nghĩa là “Tôi xin phép về trước”.


Hãy nói “Tôi xin phép về trước” để thể hiện sự quan tâm tới đồng nghiệp.
Trên đây là một vài điều cơ bản về tác phong và lối hành xử khi giao tiếp với người Nhật. Chỉ cần bạn để ý một chút thôi thì bạn sẽ ghi điểm trong mắt họ đấy.

Kinh nghiệm du học của một cựu du học sinh Nhật Bản

Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của internet, các bạn có thể thu thập được bất cứ thông tin gì về du học Nhật Bản. Tôi mong rằng các bạn sẽ thu thập thật nhiều thông tin về du học Nhật Bản sau đó sẽ đề ra một mục tiêu cụ thể và một kế hoạch du học thật chu đáo. 

1. Cơ sở vật chất của các trường đại học Nhật Bản
Các trường đại học Nhật Bản được trang bị rất hoàn hảo từ thư viện, phòng máy tính, phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm đến ký túc xá, nhà ăn, nhà tập thể dục, bể bơi, sân bóng…nhằm phục vụ tốt nhất mục đích học tập, nghiên cứu và nghỉ ngơi của sinh viên. Ví dụ, thư viện được xây dựng khang trang với một kho sách đồ sộ, sinh viên ai cũng có thể mượn sách miễn phí mang về nhà học hoặc học tại thư viện. Phòng máy tính cũng được trang bị rất hiện đại, bất cứ ai cũng có thể sử dụng được và nhiều nơi còn cho phép sinh viên sử dụng 24/24. Các phòng ốc của các trường đại học luôn được trang bị đầy đủ hệ thống máy lạnh, lò sưởi làm bạn cảm thấy rất thoải mái trong những ngày đông lạnh giá hoặc ngày hè nóng nực.
Nhà ăn ở trường cũng rất tiện lợi và rẻ. Rất nhiều sinh viên, không nấu ăn ở nhà mà chủ yếu ăn ở nhà ăn. Ngoài ra, ở trường đại học còn có cả hiệu sách, đại lý bán vé tàu, cửa hàng giặt đồ, cửa hàng văn phòng phẩm, máy rút tiền ATM,… rất thuận tiện. Tại nhà tập thể dục thể thao, bể bơi, sân bóng, sinh viên có thể thư giãn sau những giờ phút học tập căng thẳng.

2. Giờ học
Phần lớn các trường đại học Nhật Bản giảng dạy bằng tiếng Nhật. Cả hai lần du học Nhật Bản, tôi cũng học bằng tiếng Nhật. Khi mới đặt chân tới Nhật, tiếng Nhật chưa đủ, việc nghe giảng của tôi đã gặp rất nhiều khó khăn. Sau mỗi giờ học, tôi thường phải mượn vở của những người bạn Nhật, mượn rất nhiều tài liệu tham khảo ở thư viện, về Phòng nghiên cứu để vừa tự ôn lại bài giảng, vừa làm bài tập. Vì vậy, theo tôi, trước khi vào học chính thức tại một trường đại học nào đó, bạn nên cố gắng trang bị càng nhiều tiếng Nhật càng tốt. Ngoài ra, trong các bài giảng của các giáo sư Nhật Bản, bên cạnh sách giáo khoa, sách tham khảo cũng được sử dụng rất nhiều, và khối lượng sinh viên phải tự học cũng rất lớn. Bạn nên tranh thủ đọc càng nhiều sách tham khảo càng tốt. Kết quả học tập mỗi môn học sẽ được đánh giá thông qua điểm thi giữa kỳ, cuối kỳ, report và cả những phát biểu tại những buổi thảo luận.

3. Làm thêm
Theo tôi việc làm thêm cũng cần thiết đối với những du học sinh tự túc. Tôi cũng làm thêm nhiều việc như làm tại tiệm ăn Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Nhật, dịch tài liệu,… Tiền thù lao làm thêm tại các tiệm ăn thông thường khoảng 800yên/giờ, bao gồm cả ăn trưa hoặc tối. Những công việc khác như dạy tiếng Việt, dịch thuật thì có mức lương cao hơn nhưng rất khó tìm và không phải khi nào cũng có. Đi làm thêm giúp tôi kiếm một phần sinh hoạt phí, nhưng làm thêm còn là một cơ hội tốt cho tôi tìm hiểu xã hội, con người Nhật Bản. Tuy nhiên, bên cạnh tôi cũng có một vài người bạn do tập trung quá vào việc làm thêm, bỏ bê việc học hành, dẫn đến một kết quả học tập không tốt. Cũng có một số người làm những công viêc nguy hiểm. Làm thêm như vậy thì không nên. Ở trường đại học, cũng có chỗ giới thiệu công việc làm thêm cho bạn, bạn thử đến đó tham khảo xem sao.

4. Học bổng
Ngày nay, số lượng du học sinh ở Nhật Bản ngày một nhiều, vì vậy việc xin học bổng cũng ngày càng khó khăn. Qua bảng thông báo của nhà trường, những cuốn sách hướng dẫn tìm kiếm học bổng cho du học sinh và qua thông tin từ bạn bè, tôi đã lập một danh sách những học bổng mà mình thoả mãn điều kiện dự tuyển, sau đó tôi đã nộp hồ sơ xin học bổng rất nhiều lần. Những học bổng có giá trị cao, đối tượng tuyển rộng rãi (không giới hạn quốc tịch, ngành nghề chắng hạn) là những học bổng rất khó xin. Sau nhiều lần nộp hồ sơ tôi nhận thấy rằng, thành tích học tập cùng với bộ hồ sơ chuẩn bị thật chu đáo là những yếu tố quan trọng quyết định bạn có được chấp thuận hay không. Bộ hồ sơ xin học bổng thường bao gồm Bảng thành tích học tập, Giấy chứng nhận đã đăng ký cư trú dành cho người nước ngoài, Bản kế hoạch nghiên cứu, kế hoạch học tập… Vì phải tiến hành nộp đơn nhiều lần, nên theo tôi để tiết kiệm thời gian cho mỗi lần nộp đơn bạn nên luôn chuẩn bị sẵn những giấy tờ nêu trên. Ngoài ra, từ thời điểm nộp đơn xin học bổng đến thời điểm được chấp thuận là một khoảng thời gian khá dài, nên bạn cũng cần theo dõi xem tiến trình đến đâu.

5. Cuộc sống ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, bất cứ cái gì bạn cần đều có thể mua được. Hệ thống những cửa hàng tiện ích mở cửa 24 tiếng một ngày có ở khắp nơi. 
Trong suốt thời gian du học, tôi đã sống với một gia đình người Nhật. Nhưng nhiều bạn bè tôi sống trong ký túc của trường. So với nhà thuê ở ngoài, thì ký túc xá chật chội hơi, nhiều trang thiết bị phải sử dụng chung, nhưng tiền nhà ở ký túc xá lại rẻ hơn rất nhiều so với bên ngoài, và ở trong ký túc xá bạn còn có thể kết bạn với nhiều sinh viên người Nhật cũng như sinh viên nước ngoài cùng sống chung ký túc xá. Còn tôi, qua những câu chuyện giao lưu với gia đình người Nhật mà tôi sống chung, không những tôi nâng cao được năng lực tiếng Nhật mà tôi cũng học hỏi được rất nhiều điều về văn hoá, sinh hoạt của người Nhật.
Ở Nhật người ta ít sử dụng xe máy. Hệ thống xe buýt và tàu điện ở Nhật Bản rất phát triển giúp bạn đi tới bất cư nơi đâu bạn muốn trên nước Nhật. Nên bạn chỉ cần mua thêm chiếc xe đạp là tiện lợi nhất. Phần lớn sinh viên ở Nhật sử dụng xe đạp làm phương tiện đi lại.
Vào ngày nghỉ, tôi thường tranh thủ đi thăm các di tích lich sử, danh lam thắng cảnh, chùa chiền hoặc đi dạo tại các trung tâm mua sắm. Vào những đợt nghỉ dài, tôi hay cùng bè bạn đi du lịch đâu đó hoặc đi nghỉ ở suối nước nóng.

6. Một vài lời nhắn gửi tới các bạn có nguyện vọng du học Nhật Bản

Ngày nay, cùng với sự phát triển không ngừng của internet, các bạn có thể thu thập được bất cứ thông tin gì về du học Nhật Bản. Tôi mong rằng các bạn sẽ thu thập thật nhiều thông tin về du học Nhật Bản sau đó sẽ đề ra một mục tiêu cụ thể và một kế hoạch du học thật chu đáo. 
Chúc các bạn có một chuyến du học Nhật Bản thành công!

Doraemon Làm Đại Sứ Hữu Nghị Cho Olympics Mùa Hè 2020

Vào thứ bảy vừa rồi, ủy ban Olympic quốc tế đã công bố tại Buenos Aires rằng Tokyo đã giành được quyền tổ chức thế vận hội Olympic mùa hè năm 2020.
Tokyo đã phải cạnh tranh với Madrid và thành công trong việc chiến thắng thủ đô của Tây Ban Nha trong cuộc bình chọn đầu tiên, cuối cùng là lội ngược dòng trước Istabul. Điều đặc biệt là ủy ban tổ chức đã quyết định đưa chú mèo máy Doraemon nổi tiếng của tác giả Fujiko F.Fujio trở thành đại sứ hữu nghị.
Olympics mùa hè được tổ chức lần cuối tại Nhật Bản vào năm 1964, đó là lần đầu tiên một nước châu Á dành quyền đăng cai thế vận hội lớn này. Khi ấy, bộ phim From Up On Poppy Hill của đạo diễn Goro Miyazaki đã được trình chiếu trong suốt quá trình chuẩn bị cho Olympic lần thứ 64. Bên cạnh đó, một số sự kiện được phát sóng tại thế vận hội đã phần nào quảng bá cho các loại TV mùa trên đất nước này.
Series anime Eagle Sam do Dax International được sản xuất dựa trên hình ảnh chú đại bàng Sam (Sam the Eagle), chú đại bàng này đã từng là mascot của Olympics mùa hè năm 1984 tổ chức tại Los Angeles. Katsuhiro Otomo đã xây dựng một phần câu chuyện bộ phim Akira của mình trong sân vận động được xây cho Olympics 2020 tại Neo-Tokyo. Và các vận động viên, dù là thật hay ảo cũng xuất hiện khá thường xuyên trong anime trong suốt những thập kỉ qua.
Trước đó, Toyota từng mang Doreamon đến Olympics 2012 trong một quảng cáo của công ty vào năm ngoái. Bên cạnh đó, Bộ Nội Vụ và Ngoại Giao của Nhật Bản đang tiến tới xây dựng hệ thống truyền thông có độ phân giải cao 4k-resolution và 8k-resolution để phục vụ cho Thế Vận Hội năm 2020.

Cuộc sống ở Nhật Bản

Nhắc tới Nhật Bản là nhiều người hình dung đến một đất nước phát triển kinh tế hùng mạnh từ đống tro tàn chiến tranh, nói đến tổng sản phẩm quốc nội tính theo đầu người nằm trong số những nước đứng đầu thế giới. Không ít người cho rằng cuộc sống ở Nhật Bản là thiên đường bởi tiền lương ở Nhật cao như tháp Tokyo hay những tòa nhà chọc trời sừng sững giữa các thành phố lớn của xứ Phù Tang. Vậy thực chất cuộc sống ở Nhật như thế nào?
Ở Nhật Bản, điều tra toàn quốc năm 1995 cho thấy, số người trong một hộ gia đình trung bình là 2,82 người. Hiện nay, ở Nhât Bản, hộ gia đình 1 người chiếm khá nhiều, tới 25,6 %. Đây chủ yếu là hộ của những thanh niên đi học hoặc đi làm xa nhà bố mẹ mà chưa lập gia đình. Vì vậy nếu chỉ tính hộ gia đình từ 2 người trở lên thì số người trung bình mỗi hộ là 3,44 người, tức là đa phần các hộ gia đình có khoảng 1 hoặc 2 con.


Ngày nay, mỗi gia đình có khoảng từ 1-2 con.
Cũng như người Việt Nam, người Nhật có quan niệm rằng càng có nhiều con càng hạnh phúc, nhưng hiện nay, người ta nghĩ rằng không thể có nhiều con được. Theo thăm dò do Văn phòng Thủ tướng tiến hành năm 1997 về lý do tại sao số con giảm đi, 58,2% trả lời rằng vì mất nhiều chi phí giáo dục con cái, 50,1% nêu lý do không có khả năng về kinh tế để nuôi dạy, chăm sóc con cái, và 44,7% trả lời rằng khó có thể vừa đi làm vừa nuôi con. Ở Nhật Bản, trong tất cả hộ gia đình có cả hai vợ chồng, tức là không kể những gia đình chỉ có một người, 57,2% các bà vợ đi làm và tỷ lệ hộ gia đình hạt nhân khá cao. Vì vậy, có con nhỏ thì vợ phải nghỉ việc để chăm sóc con. Và nói chung, sau khi đẻ con, người phụ nữ không dễ quay lại làm việc tại cơ quan cũ. Đây cũng là một trong nhiều lý do khiến cho gia đình Nhật Bản chỉ có ít con.
Theo thống kê năm 1997, thu nhập bình quân mỗi tháng của một hộ gia đình là 595.123 yên tức khoảng 4.400 đôla Mỹ. Nhưng mỗi tháng phải nộp thuế thu nhập, thuế cư trú và các loại cước phí bảo hiểm như bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, bảo hiểm hưu trí, v,v… tổng cộng chừng 98.150 yên, tức khoảng 16,5% so với thu nhập. Theo luật pháp Nhật Bản, công dân Nhật Bản bắt buộc phải gia nhập bảo hiểm y tế, 20 tuổi trở lên thì phải gia nhập bảo hiểm hưu trí, và những nhân viên biên chế của các công ty phải gia nhập bảo hiểm thất nghiệp. Vì vậy không thể tránh được những khoản tiền này. Kể từ tháng 4/1997, mức thuế tiêu dùng tăng từ 3% lên 5% và chế độ giảm thuế đặc biệt kéo dài 3 năm cũng bị hủy bỏ, nên người dân phải chịu nhiều gánh nặng hơn trước.
Một khoản chi phí lớn khác trong gia đình là chi phí ăn uống. Thống kê cho thấy mức chi trung bình khoảng 80.000 yên tức khoảng 600 đôla 1 tháng, chiếm 13,4% tổng thu nhập. Món ăn chính của người Nhật là cơm. Ở Nhật Bản, giá 1kg gạo loại trung bình khoảng 5-600 yên, tức khoảng 4,5 đôla Mỹ, gấp mươi, mười lăm lần giá ở Việt Nam. Cùng với cơm người dân Nhật ăn các loại thịt, cá, rau, đậu. Nói về thịt người Nhật thích ăn 3 loại thịt là thịt bò, thịt lợn, thịt gà. Ngoài 3 loại thịt này ra họ còn ăn các loại thịt khác như thịt cừu, ngựa, lợn rừng v,v… nhưng số lượng tiêu thụ không đáng kể. Giá 1 cân thịt bò khoảng 7.000 yên tức khoảng 52 đôla, thịt lợn khoảng hơn 16 đôla, thịt gà khoảng 8 đôla. Cá thì người Nhật thích ăn các loại cá biển hơn cá nước ngọt. Người Nhật thường ăn trứng gà, không ăn trứng vịt. Giá trứng gà Nhật Bản khá rẻ, 1 quả khoảng 13 yên tức khoảng 0,1 đôla. Đối với các loại rau và hoa quả thì 1 cân bắp cải, củ cải giá 170 yên, tức 1,3 đôla. 1 cân táo 500 yên tức 3,7 đôla, 1 cân nho khoảng 1.400 yên tức 10,4 đôla. Nói chung, thực phẩm Nhật Bản rất đắt, không chỉ so với mức giá Việt Nam mà cả nhiều nước khác trên thế giới.
Đắt đỏ nhất ở Nhật Bản phải kể đến giá nhà ở. Tuy giá đất ở Nhật đã giảm nhiều kể từ khi nền kinh tế thổi phồng sụp đổ, theo những thống kê đầu năm 98, giá đất ở Tokyo và Osaka vẫn đắt nhất trên thế giới. Nếu muốn mua nhà ở thủ đô Tokyo với mức chi phí gấp 5 lần tổng thu nhập 1 năm, tức khoảng 260.000 đôla, thì phải tìm ở những nơi cách xa trung tâm Tokyo khoảng 60 km, và nơi đó đương nhiên là ngoại thành. Muốn tìm nhà trong nội thành Tokyo thì có lẽ phải chuẩn bị 700.000 đôla trở lên. Trong bối cảnh như vậy, 60% hộ gia đình sống ở nhà mua và 40% còn lại sống ở nhà thuê. 35% hộ gia đình sống ở nhà tập thể, chung cư. Nếu chỉ tính vùng Tokyo thì hơn 50% hộ sống ở nhà tập thể. Khi mua nhà, người ta áp dụng chế độ trả góp dài kỳ 20-30 năm, với mức trả góp mỗi tháng khoảng 750 đôla. Có một số công ty bất động sản cho phép áp dụng trả góp 100 năm.
Ở Nhật Bản, hầu hết mọi người mua nhà trả góp. Thu nhập trong tương lai phải ổn định thì mọi người mới sẵn sàng mua nhà theo hình thức này. Nhưng hiện nay kinh tế Nhật Bản đang trì trệ nên sức mua nhà cũng giảm đi.
Tình hình kinh tế định trệ những năm 1997-98 khiến cho người dân Nhật Bản rất lo lắng về cuộc sống. Theo thăm dò năm ngoái của Văn phòng Thủ tướng, vấn đề nhiều người lo lắng nhất là sức khỏe của bản thân, thứ 2 là cuộc sống sau khi về hưu, thứ 3 là sức khỏe của gia đình, thứ 4 là thu nhập từ nay trở đi, tiếp đến là học hành, tìm việc, hôn nhân của con cái.
Ở Nhật Bản, trường cấp 1 và cấp 2 là giáo dục bắt buộc nên nếu con đi học các trường công thì không cần nộp học phí. Nhưng để cho con đi học mẫu giáo, trường cấp 3, đại học và các trường chuyên môn thì phải nộp học phí. Theo bộ giáo dục, kể từ khi con 4 tuổi bắt đầu đi mẫu giáo đến khi 18 tuổi tốt nghiệp cấp 3, tổng cộng các chi phí cho con đi học, bao gồm học phí nộp cho nhà trường, tiền mua văn phòng phẩm, tiền ăn trưa ở trường v,v… vào khoảng 38.000 đôla nếu học trường công, còn học trường tư thì chừng 69.000 đôla. Đây là chỉ tính chi phí cho 1 con.
Nói chung người ngoài nhìn vào Nhật Bản đều cho rằng cuộc sống ở Nhật Bản thật sung sướng vì lương bổng cao, phúc lợi tốt. Mà quả thực, với số tiền lương lĩnh trong nước, nếu tiêu ở nước ngoài là những nơi có vật giá rẻ hơn nhiều thì rõ ràng dễ mang lại ấn tượng người Nhật chi mạnh tay. Bản thân người Nhật, đến 91% cho rằng họ thuộc tầng lớp trung lưu. Tuy nhiên, từ những số liệu kể trên, nếu lấy tổng thu nhập của mỗi hộ gia đình trừ đi các khoản thuế, bảo hiểm, chi phí ăn uống, đi lại, giáo dục cho con cái, v.v… thì thấy cũng chẳng còn lại bao nhiêu.
Nhật Bản là một trong những nước mà người dân có thu nhập cao trên thế giới. Nhưng với mức chi phí sinh hoạt đắt đỏ ở Nhật, có lẽ chỉ nên dùng từ “đủ” chứ không thể dùng từ “dư thừa” để nói đến cuộc sống của người Nhật. Có chăng chỉ là một bộ phận trong xã hội mà thôi.
Ở Nhật Bản, công việc tốt có nghĩa là tiền lương cao và đảm bảo một tương lai ổn định. Và để dễ dàng có một công việc tốt như mong muốn thì phải có tấm bằng đại học danh giá. Có lẽ vì vậy nên các gia đình chỉ có ít con để có khả năng đầu tư. Nhưng cạnh tranh gay gắt về giáo dục không chỉ là gánh nặng của các bậc phụ huynh mà còn là gánh nặng của bản thân những đứa trẻ. Đối với những em 10 tuổi, thời giờ dành cho học tập trung bình trong 1 ngày là khoảng 6 tiếng đồng hồ.
Học sinh Nhật Bản học rất nhiều. Ở Nhật Bản, giờ học của các trường cấp 1, 2, 3 bắt đầu từ khoảng 8 giờ 30 phút. 1 tiết kéo dài 45-50 phút, học hết 4 tiết thì nghỉ trưa khoảng 1 tiếng rồi lại học thêm 2 tiết nữa. Học xong vẫn chưa về được mà phải tự dọn dẹp phòng học sạch sẽ, sau đó phải tham gia vào các hoạt động thể thao, văn hóa, gọi là “kurabu” tức “câu lạc bộ.” Từ lớp 4 trở lên, các học sinh tự chọn những môn mà mình quan tâm, và tham gia câu lạc bộ dành cho môn đó. Ở trường có nhiều câu lạc bộ như bóng chày, bóng đá, bóng rổ, bóng bàn, kiếm đạo, nhu đạo, trà đạo, họa, nhạc, v,v… Sau khi tan học, các học sinh về nhà ăn cơm. Cũng như Việt Nam, ở Nhật Bản, “kinh doanh giáo dục” được triển khai tích cực và có rất nhiều trường luyện thi “Juku”. Nhiều học sinh sau giờ học ở trường chính quy, về nhà ăn cơm xong lại đến trường “Juku” để học thêm. Theo điều tra năm 1996 của bộ giáo dục, thậm chí trong các học sinh cấp 1 cũng có gần 40% học sinh đi học trường luyện thi. Đối với học sinh cấp 2 thì tỷ lệ này tăng lên đến 70%.
Học quá nhiều như vậy nên trẻ em Nhật Bản ít có thời gian vui chơi. Theo điều tra năm ngoái, mỗi ngày, thời gian dành cho các hoạt động giải trí của học sinh trường cấp 2 trung bình chỉ là 54 phút. Kết quả điều tra năm 1996 cho thấy, trong thời gian rỗi, học sinh nam thích nhất là trò chơi điện tử. Phương tiện giải trí này được xếp thứ nhất đối với học sinh cấp 1-2 và thứ 2 trong học sinh cấp 3. Cách giải trí được học sinh nam ưa thích thứ 2 là nghe nhạc. Học sinh nữ thì thích nhất là nghe nhạc, thứ 2 là chơi trò chơi điện tử. Trong học sinh cấp 3, cả nam, nữ đều thích hát karaoke. Karaoke không được xếp trong 10 trò chơi giải trí ưa thích nhất của học sinh cấp 1-2 nhưng đối với học sinh cấp 3 thì được xếp thứ 3 với nam giới, thứ 2 với nữ giới.
Ở trường, các em sinh hoạt câu lạc bộ và trong đó có các môn thể thao nên khi nghỉ ngơi thì ít chơi thể thao. Học sinh cấp 2 chơi thể thao chỉ 51 phút và học sinh cấp 3 thì chỉ chơi 34 phút trong tuần. Theo điều tra này, đối với học sinh 10 tuổi, thứ tự các môn thể thao được ưa thích là bowling, bơi, bóng chày, bóng đá, bóng rổ. Những người lứa tuổi 20 thích chơi các môn bowling, trượt tuyết, bóng chày, câu cá, bơi. Những người 30 tuổi trở lên thì chơi golf nhiều nhất. Ở Nhật Bản, golf là môn thể thao chiếm vị trí hơi đặc biệt. Khi người ta chiêu đãi đối tác kinh doanh thì họ mời đối tác đó đi đánh golf.
Còn cuộc sống của người lớn như thế nào? Đa số người lớn đương nhiên phải đi làm để kiếm sống. Sự khác biệt lớn với tình hình lao động Việt Nam là tỷ lệ nhân viên làm việc trong các cơ sở nhà nước và các chính quyền địa phương. Ở Nhật Bản, số lượng viên chức cả các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương là 4.430.000 người, chiếm 7% trong tổng số người lao động là 64.142.000. 93% còn lại đi làm các công ty và cơ quan thuộc khu vực tư nhân. Xét về loại việc làm, 30% người lao động làm việc liên quan đến sản xuất mặt hàng công nghiệp, xây dựng như nhân viên nhà máy, kỹ sư, công nhân xây dựng v,v… Kế tiếp là những người làm việc tại văn phòng, chiếm 18,8%, người bán hàng chiếm 14,8%, những người làm việc nghiên cứu – phát triển chiếm 12%. Những người làm nông nghiệp, ngư nghiệp chỉ chiếm 5,9%.

Số người làm việc cho các ngành công nghiệp chiếm tỉ lệ lớn.
Số người làm việc ở nhà máy, số kỹ sư và công nhân ngành xây dựng nhiều như vậy, chính là ví dụ rõ nhất về 1 nước công nghiệp tiên tiến. Trong 30 năm qua, giới này lúc nào cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số người lao động, luôn luôn hơn 30%. Trong khi đó, số người làm nghề nông, ngư nghiệp giảm đi một cách nhanh chóng. 30 năm trước họ chiếm gần 25% nhưng hiện nay chỉ chiếm 5,9%, mà đa số là người già. Đây cũng là vấn đề nghiêm trọng. Ngược lại, những người làm nghề nghiên cứu-phát triển, nhân viên văn phòng, làm việc dịch vụ đã và đang tăng lên.
Một điểm khác biệt của công nhân viên Nhật Bản so với công tư chức ở Việt Nam là thời gian đi làm – vừa mất thời gian, vừa rất mệt mỏi. Thời gian đi làm và về nhà trong một ngày của tất cả người lao động bình quân là 49 phút. Nhưng ở các thành phố lớn như Tokyo thì thời giờ đi lại thực tế cao gấp đôi chỉ số trung bình nói trên. Điều này khiến người cha, người chồng đi làm ở ngoài khó có nhiều dịp tiếp xúc với gia đình. Vào những ngày trong tuần, trừ thời gian ngủ, thời gian người cha, người chồng tiếp xúc với gia đình chỉ khoảng 4 tiếng đồng hồ.
Từ trước đến nay, người Nhật Bản nghĩ rằng để đưa kinh tế đất nước phát triển, người dân phải chịu khó, làm việc cần cù. Nay Nhật Bản đã đạt mục tiêu “trở thành một nước phát triển kinh tế” nên cách suy nghĩ của người dân cũng dần dần thay đổi. 56% người nghĩ rằng, về mặt vật chất họ có đủ thứ rồi nên từ nay trở đi sẽ coi trọng đến việc làm cho cuộc sống tinh thần phong phú hơn. 54,6% người nghĩ rằng, dù không thỏa mãn được về kinh tế thì họ cũng dành ưu tiên hơn cho một cuộc sống dễ chịu, thoải mái.
Gần đây, người Nhật Bản đã bắt đầu nghĩ tới việc làm cho cuộc sống tinh thần phong phú hơn. Nhưng khi người ta có quan tâm đến điều đó thì kinh tế Nhật Bản trên đường suy thoái. Hiện nay, các công ty đang mạnh mẽ tiến hành cải tổ. Số vụ phá sản của công ty cũng tăng lên. Sự ổn định của thị trường lao động dựa trên chế độ thâm niên và tuyển dụng suốt đời đang bị đe dọa. Có nhiều người đang đứng trước nguy cơ thất nghiệp. Trong khi đó, số người già tăng với tốc độ khá nhanh. Có thể nói, sau thế chiến 2, thời kỳ khó khăn thứ 2 của Nhật Bản đã bắt đầu.
Có nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Một số nhà bình luận Nhật Bản và nước ngoài nói rằng cơ cấu giáo dục, lao động, tài chính, hành chính và chính trị phải xem xét lại. Hiện nay, bản thân nước Nhật cũng cố gắng tìm con đường đi trong tương lai và bắt đầu các cuộc cải cách, ví như cuộc cải cách mang tên “Big Bang”.
Người ta cho rằng, trong tình hình hiện nay, người dân phải phát huy bản chất dân tộc và truyền thống để đối phó với những thay đổi nhằm giữ gìn hành phúc và những thành công đã đạt được.

“Bí kíp vàng” khi thuê nhà tại Nhật Bản

Thuê nhà ở Nhật Bản là cả một vấn đề nếu bạn không rành tiếng Nhật cũng như phong tục tập quán nơi đây.
Xem xét kỹ điều kiện căn nhà, người bảo lãnh... sẽ giúp bạn thuê nhà dễ dàng hơn tại Nhật Bản.

Các thủ tục thuê nhà ở Nhật đều được tiến hành thông qua nhà môi giới bất động sản (fudousan), nên khi có ý định đi tìm nhà trọ thì việc đầu tiên là tìm đến các quầy hàng của fudousan.Bằng việc truy cập vào internet, bạn có thể chọn nhà theo từng khu vực mình muốn sinh sống, kèm theo các điều kiện về giá tiền, cấu trúc căn nhà, vị trí địa lý… Hơn nữa, trên trang web cũng thường cho biết số tiền reikin và shikikin để người xem có thể ước lượng tiền phải đặt đầu vào là bao nhiêu.Một số điểm nên chú ý khi xem thông tin nhà thuê (bản vẽ + thông tin đính kèm) như sau:
+ Nếu có nhu cầu dùng máy giặt riêng (nhất là đối với các bạn nữ) thì khi xem bản vẽ căn nhà cần xác định rõ có chỗ để máy giặt hay không. Chỗ để máy giặt có thể bố trí trong nhà hoặc ngoài ban công tùy theo loại nhà, ở chỗ đó trên bản vẽ thường được biểu thị bằng một hình vuông có gạch chéo, hoặc in chứ W (washing machine).
Khi thuê nhà tại Nhật Bản bạn cần xem xét kỹ điều kiện căn nhà
+ Nếu khi xem trên mạng mà bạn tìm được một căn phòng có giá rẻ hơn bình thường khá nhiều, thì nên xem kĩ điều kiện căn nhà đó xây từ năm bao nhiêu, chắc chắn có phòng tắm và nhà vệ sinh không (cái này hơi thừa nhưng ở Nhật có một số nhà cũ thì chỉ có nhà vệ sinh chứ không có phòng tắm… hoặc dùng nhà vệ sinh và phòng tắm chung).Nhà vệ sinh ở Nhật cũng có hai loại là loại bệt (truyền thống của Nhật), và loại bồn (loại của phương Tây), khi xem bản vẽ bạn cũng nên chú ý vấn đề này. Tất nhiên trước khi quyết định thuê nhà còn một bước đi xem nhà thực tế, nhưng nếu đã xem kĩ ở phần bản vẽ thì có thể tiết kiệm được thời gian đi xem thực tế những căn nhà ngay từ đầu đã không đáp ứng đủ điều kiện.
+ Nhà ở Nhật chia làm hai loại: washitsu và youshitsu, washitsu là kiểu nhà truyền thống của Nhật, sàn lát bằng tatami (một loại chiếu Nhật), cửa và vách tường được dán giấy; youshitsu là kiểu nhà phương Tây, sàn lát gỗ, nói chung là giống nhà bình thường ở Việt Nam.Chọn washitsu hay youshitsu là tùy theo sở thích của mỗi người, tuy nhiên lưu ý đối với washitsu, mùa hè độ ẩm cao, nếu không thường xuyên lau chùi thì tatami dễ ẩm mốc, cửa và vách tường làm bằng giấy nên cách âm không cao, tất nhiên cách nhiệt cũng không tốt, mùa hè có thể mát nhưng mùa đông có thể rất lạnh. Thêm một điều nữa, vì washitsu trải thảm tatami nên thường hợp với những bạn thích ngủ bằng futon (đệm trải thẳng xuống đất), còn những bạn thích ngủ trên giường thì có lẽ nên chọn youshitsu.
+ Về thông tin kèm theo bản vẽ căn nhà, một số nhà sẽ ghi rõ là đồng ý cho người nước ngoài thuê hay không (đây là ý kiến của chủ nhà, fudousan chỉ là người truyền tải). Nếu không tìm được thông tin này trên mạng, khi tìm được một căn nhà ưng ý, việc đầu tiên cần hỏi fudousan là chủ nhà có đồng ý cho người nước ngoài thuê hay không. Một số chủ nhà (thường là người già) không muốn cho người nước ngoài thuê vì sợ rắc rối xảy ra do bất đồng ngôn ngữ, văn hóa… hoặc một số chủ nhà có định kiến sẵn với người nước ngoài…
Để ký hợp đồng thuê nhà, bạn phải có người bảo lãnh
+ Một điều chú ý nữa khi kí hợp đồng thuê nhà là vấn đề hoshounin - người bão lãnh. Trong hợp đồng thuê nhà có một điều khoản về người bảo lãnh, người bảo lãnh phải chịu trách nhiệm liên đới về những thiệt hại chẳng may do người thuê gây ra. Nếu là người Nhật thì người bảo lãnh thường là bố mẹ hoặc người thân thích trong gia đình, còn đối với người nước ngoài thì vấn đề người bảo lãnh khá phức tạp hơn.Trong trường hợp bạn là lưu học sinh thì có thể liên hệ với trường đang học để nhờ phía trường làm người bảo lãnh (tùy từng trường mà có thể được chấp nhận hay không), nếu đồng ý được phía trường học làm người bảo lãnh thì bạn còn phải thương thuyết với phía fudousan xem chủ nhà có chấp nhận trường học làm người bảo lãnh hay không. Trong trường hợp không thể tìm được người bảo lãnh thích hợp, hiện nay, các công ty fudousan có dịch vụ đứng ra nhận là người bảo lãnh cho người nước ngoài với giá tiền khoảng bằng 2 đến 3 tháng tiền nhà (giống như một dạng bảo hiểm).

Ở Nhật: Giờ ăn trưa đồng nghĩa với giờ học

Giờ ăn trưa cho trẻ được coi là phần quan trọng trong chính sách giáo dục sớm của chính phủ Nhật Bản. Nó không đơn thuần chỉ là một bữa ăn mà còn ẩn chứa nhiều giá trị giáo dục. 

Vào tháng 11, khi trời bắt đầu sang đông, các bà tại Nhật càng phải quan tâm hơn tới khẩu phần bữa ăn trưa cho con cái mình. Ở Nhật, một hộp cơm trưa cho trẻ mang đi học thường gọi là “bento” hay “obento”, là một hộp nhựa đựng thức ăn hay cả một cặp lồng 3, 4 ngăn đầy ắp.

Một hộp cơm bento cho trẻ.
Trong khi hầu hết các trường tiểu học, trung học cơ sở đều có nhà bếp nấu ăn cho trẻ thì cấp mẫu giáo mầm non thường không có. Do đó, tất cả các bà mẹ có con từ 2-5 tuổi đều phải tự làm bữa trưa cho con mình. Với những đứa trẻ kém ăn, hộp cơm của các mẹ thường có các “charaben”, nhân vật được trang trí từ thức ăn để “thu hút” chúng. Mỗi hộp cơm thường tốn 20, 30 phút để chuẩn bị.

Hộp cơm đảm bảo chất dinh dưỡng và còn chứa đựng những bài học giáo dục.
Thông thường, các bà mẹ thường kết hợp khéo léo một phần thức ăn từ bữa tối, chuẩn bị trước rau thịt tươi để sáng hôm sau chỉ cần làm thêm các món ăn nhanh như tamagoyaki, một món trứng tráng cuộn hơi ngọt của Nhật. Mỗi hộp bento không chỉ đảm bảo dinh dưỡng cần thiết cho trẻ mà còn chứa đựng nhiều giá trị giáo dục và giờ ăn trưa có thể coi là một giờ học thú vị và hấp dẫn không kém gì giờ học vẽ, thủ công…
Bài học về giữ vệ sinh 
Trường học tại Nhật có các địa điểm rửa tay ở khắp nơi. Ở đây, trẻ em được dạy bảo tự giác vệ sinh bàn tay sạch sẽ bằng cách rửa tay bằng xà phòng.
Bài học về phép lịch sự và biết ơn 
Trước khi ăn, các bé sẽ nói lời cảm ơn tới cha mẹ, tới những bác nông dân… những người đã tạo nên bữa ăn ngon miệng cho bé. Sau đó cả lớp sẽ cùng hát vang bài hát: “obento obento ureshiina (hạnh phúc)”.

Những bài học qua giờ ăn trưa.
Bài học về dinh dưỡng
Trong các hộp cơm cho bé, các bà mẹ luôn cân bằng dinh dưỡng. Do đó các bé cũng dần làm quen và định hình ban đầu về các chất dinh dưỡng cần thiết để đảm bảo cho cuộc sống.
Bài học về sự thi đua
Sau khi ăn, những đứa trẻ đã ăn hết phần của mình thường đến khoe cô giáo một cách đầy tự hào. Việc thi đua trong ăn uống giúp trẻ tập trung và ăn ngon miệng. Các bé ăn kém thường được các cô giáo quan tâm nhiều hơn. Khi tất cả đã kết thúc bữa ăn trưa, những đứa trẻ sẽ hô vang “Goshisosamadeshita” – “cảm ơn vì bữa ăn ngon miệng” rồi cùng chạy đi đánh răng.
Phương pháp giáo dục thân thiện và hiệu quả trên xứng đáng là bài học cho nhà trường và phụ huynh Việt học hỏi. 

Nhật Bản: Làm bài thi không cần giám thị

Đó là một nội dung trong khẩu hiệu “Tin tưởng lẫn nhau” được không ít trường trung học ở xứ sở hoa anh đào áp dụng mấy chục năm qua và thu được những kết quả bất ngờ.

Một buổi thi của học sinh trung học Nhật Bản
Lúc 9g40, cô Masami Hosano, 41 tuổi, phát giấy làm bài kiểm tra môn xã hội học cho học sinh (HS). Cô bảo HS viết tên vào và bắt đầu làm bài. Rồi cô bỏ lớp lên phòng giáo viên suốt quãng thời gian còn lại.
Đây quả là cơ hội vàng cho những HS kém nhìn bài của những bạn học giỏi. Nhưng tất cả HS trong lớp đều chăm chú làm bài kiểm tra. Không ai ngó nghiêng sang nhìn bài bạn ngồi bên cạnh. Năm phút trước khi chuông reo, cô Hosano trở lại và thu bài. Lúc ấy, các HS mới hỏi nhau đáp án.
Đây là cảnh tượng thường xuyên lặp lại ở 21 lớp học của Trường trung học Hayahoshi (thành phố Toyama, Nhật Bản).
Tổ chức những buổi kiểm tra bài mà không cần giáo viên giám sát là nét đặc trưng của Trường Hayahoshi, truyền thống này được trường duy trì suốt 47 năm nay.
Khẩu hiệu "Tin tưởng lẫn nhau" được cựu hiệu trưởng Yaichi Murobayashi xây dựng nên. "Giáo dục được hình thành thông qua quan hệ tin tưởng. Tôi muốn nhà trường này là một nơi mà tất cả chúng ta có thể tin cậy lẫn nhau" - ông Yaichi nói
Khẩu hiệu “Tin tưởng lẫn nhau” còn được Trường Hayahoshi áp dụng trong dịch vụ bán văn phòng phẩm. Dọc các hành lanh trong trường có những hộp tự phục vụ chứa những văn phòng phẩm (như tẩy, bút chì, vở, bút xoá…) để bán cho HS. Ai cần mua món đồ gì thì cứ lấy và trả tiền. 
Ủy ban HS của trường lần lượt cử ra hai HS ở các lớp trông coi các hộp này. Sau khi tan học, hai HS này sẽ đếm tiền bán văn phòng phẩm. Mỗi năm cũng có vài lần bị thiếu tiền vì có người không trả tiền khi mua hàng. Khi đó, Ủy ban HS sẽ thông báo việc này với các lớp hoặc thông báo trên bảng tin và không lau sau, Ủy ban HS nhận được thư xin lỗi và khoản tiền bị thiếu được đặt vào trong hộp.
Aiko Onodera, chủ tịch Ủy ban HS, thừa nhận hệ thống “hộp tự phục vụ” này không thể tiếp tục nếu các HS không tin tưởng nhau và cho biết nhờ chương trình này mà cô học cách tin tưởng bạn bè.
Trường trung học Shiroyama cũng áp dụng phương pháp tương tự từ năm 1971. Trong một năm, cũng có vài lần ở Trường Shiroyama có một số HS nộp bài kiểm tra với đáp án giống hệt nhau. Nhưng sau khi giáo viên tra hỏi, những HS này đều thừa nhận việc nhìn bài của bạn. Và giáo viên Trường Shiroyama không hề chê trách HS mà hỏi tại sao các em lại gian dối và đề nghị HS suy nghĩ tại sao lại phải làm bài kiểm tra và mục đích của việc học tập.
“Bài kiểm tra để làm gì? Đây chính là cơ hội để các em suy nghĩ”, ông Hirofumi Fukukawa, phó hiệu trưởng Trường Shiroyama kết luận.

Những ngày cuối năm của người Nhật Bản

Ở Nhật Bản, tháng 12 được coi là tháng bận rộn nhất. Cuối năm mọi người bận rộn với lễ Giáng sinh, hội họp cuối năm, tổng vệ sinh nhà cửa, những công việc chuẩn bị cho năm mới. Hãy cùng “soi” vào một gia đình người  Nhật, xem họ làm những gì nhé.
Lễ Giáng sinh
Lễ giáng sinh bắt nguồn từ Thiên chúa giáo nhưng sau chiến tranh thế giới thứ 2  thì Giáng sinh cũng đã dần trở thành một ngày lễ hội tại Nhật Bản. Điều đặc biệt, lễ Giáng sinh ở đây lại mang phong cách Nhật Bản, chứ không chi theo những nghi lễ của Thiên chúa giáo. Đêm Giáng sinh, người Nhật rất ít khi đến nhà thờ, mà thường tổ chức các bữa tiệc cùng với gia đình và bạn bè. Trong các buổi tiệc đó, họ không ăn gà Tây (turkey) mà hay ăn thịt gà (Toriniku), cùng nhau ăn những chiếc bánh do tự họ làm hoặc mua ở ngoài về, trao tặng nhau những món quà ý nghĩa.
Những dịp Giáng sinh, các thành viên quây quần bên nhau.
Họp mặt cuối năm (Bounenkai)
Tháng 12 là tháng mà ai cũng mong chờ đến buổi họp mặt cuối năm. Bonenkai là bữa tiệc được tổ chức để quên đi những kỉ niệm không vui, hay những công việc không thuận lợi trong năm cũ. Lần lượt những người trong công ty hay những nhóm bạn thân có cùng sở thích ngồi lại và cùng nhau tâm sự. Chính vì vậy mà vào những ngày này rất nhiều nhà hàng và các quán rượu trở nên đông khách hơn bình thường.
Tổng vệ sinh nhà cửa (Oosouji)
Trong các công việc cuối năm cần phải làm thì tổng vệ sinh, trang trí nhà cửa, chuẩn bị cho năm mới là công việc không thể thiếu với mỗi gia đình Nhật Bản. Từ những chỗ ngày thường ít được dọn dẹp như cửa lưới (amido), hệ thống thông gió (kankisen), cho đến các dụng cụ phản chiếu (shoumeikigu), sân vườn (niwa) v.v… cũng đều được quét dọn rất sạch sẽ.
Chuẩn bị cho năm mới
Nếu nói tới công việc chuẩn bị cho năm mới thì không thể không nhắc đến công việc chuẩn bị thức ăn ngày tết (osechi ryouri). Thức ăn cho ngày Tết (osechi) được làm từ trước và được ăn trong 3 ngày. Đây là truyền thống của người Nhật. Họ sẽ làm những món ăn truyền thống, sau đó bày biện thật đẹp và cho vào các hộp có các tầng. Vào ngày mồng 1 Tết, những món ăn đấy được bày trên bàn, mọi người quây quần cùng nhau thưởng thức và nói chuyện vui vẻ.
Bữa ăn truyền thống trong ngày Tết của Nhật Bản.
Không chỉ thế, công việc bày biện cho Tết cũng được coi là công việc chuẩn bị quan trọng cho năm mới. Họ trang trí cây nêu (kadomatsu) trước cổng, shimenawa trước bậc thềm vào nhà, bánh kagamimochi. Nếu việc trang trí này chỉ mất 1 ngày thì được cho là không may mắn cho nên công việc này được kéo dài đến tận 30/12.
Ngày cuối cùng của năm cũ (Oomisoka)
Omisoka là ngày cuối cùng của 1 năm, hay chính là ngày 31/12. Việc chuẩn bị cho năm mới được diễn ra cho đến tận ngày cuối cùng. Ở Nhật, vào đêm giao thừa, mọi người thường hay ăn bánh, ngồi quanh lò sưởi (kotatsu), xem chương trình cuối năm trên kênh NHK, chờ đợi 108  tiếng chuông vào đêm giao thừa, và ăn mì trường thọ (toshikoshisoba), mong được sông khỏe mạnh và sông lâu.
Những ngày cuối năm ở Nhật thật vui phải không các bạn?